Văn hóa Nhà_Liêu

Sau khi tiêu diệt Bột Hải, một lượng lớn cư dân Bột Hải còn lại tụ cư ở các châu huyện tại khu vực Thượng Kinh và Đông Kinh của Liêu, nền văn hóa Bột Hải khá tiên tiến có tác động tương đối rộng đối với văn hóa Liêu. Sau khi chiếm cứ Yên Vân thập lục châu của người Hán và qua lại thường xuyên với Tống, cũng như mậu dịch xuyên biên giới, văn hóa Hán có ảnh hưởng rất lớn đối với triều Liêu. Với việc có một lượng lớn thư tịch Hán văn được phiên dịch, các thành tựu khoa học-kỹ thuật, văn học, sử học của nhân dân Trung Nguyên được giới thiệu đến khu vực thảo nguyên, xúc tiến sự phát triển văn hóa của dân tộc du mục. Hoàng thất Liêu và quý tộc Khiết Đan thường ngưỡng mộ văn hóa Hán, như Liêu Thái Tổ sùng bái Khổng Tử, trước sau cho lập quốc tử giám tại Thượng Kinh, lập trường học ở các phủ châu huyện, để truyền thụ học thuyết Nho gia, cũng lập miếu thờ Khổng Tử; Liêu Thánh Tông thường đọc "Trinh Quán chính yếu", Liêu Đạo Tông thích xem "Luận ngữ". Thời Liêu Đạo Tông, người Khiết Đan tự xưng "chư hạ", Đạo Tông còn nói "Ngô tu văn vật, bân bân bất dị Trung Hoa".[54] Trên phương diện giáo dục, thi hành chính sách mở trường nuôi học trò, khoa cử chọn kẻ sĩ.[4]:104

Ngữ văn

Văn tự Khiết Đan trên gương đồng

Văn nhân triều Liêu đã sử dụng văn tự ngôn ngữ Khiết Đan trong sáng tác, cũng có một lượng lớn dùng ngữ văn Hán. Tác phẩm của họ thuộc các thể loại như thơ, từ, ca, phú, văn, tấu chương, thư; với các loại đề tài như thuật hoài, giới dụ, phúng gián, tự sự. Các tác giả bao gồm thành viên hoàng tộc, quần thần, người các bộ và trứ trướng (phạm tội bị thu gia sản). Thơ từ Khiết Đan trong câu có khí thế mênh mông, cũng có lời hay ý đẹp. Liêu Hưng Tông là người giỏi thơ văn, năm 1050 sứ Tống là Triệu Khái sang Liêu, Liêu Hưng Tông ngâm "tín thệ như sơn hà thi". Trong số các hoàng đế Liêu, Liêu Đạo Tông có kiến thức cao nhất về văn học, giỏi thư phú, tác phẩm tươi mới nhã lệ, ý cảnh sâu xa, có "đề lý nghiễm hoàng cúc phú". Đông Đan hoàng vương Gia Luật Bội sáng tác "Lạc điền viên thi", "Hải thượng thi". Ba huynh đệ Gia Luật Quốc Lưu, Gia Luật Tư Tông, Gia Luật Chiêu đều giỏi thuộc văn, công từ, Gia Luật Quốc Lưu có "Thố phú" (Phú về thỏ), "Ngụ mị ca"; Gia Luật Tư Tông đi sứ sang Cao Ly song bị giữ lại, trong thời gian đó cứ hễ nhớ đến quân chủ và phụ mẫu thì lại có sáng tác, sau biên thành "Tây đình tập". Hoàng hậu của Liêu Đạo Tông là Tiêu Quan Âm sáng tác "Gián liệp sơ", "Hồi tâm viện", và "Quân thần đồng chí Hoa Di đồng phong", biểu đạt quan tâm đến an nguy của xã tắc, lý tưởng chính trị trí chủ trạch dân (tận lực vì vua, ban ân huệ cho dân). Tác phẩm của người Liêu lưu truyền đến nay có Phân tiêu lục" của Vương Từ, "Túy nghĩa ca" của Tự Công đại sư. "Túy nghĩa ca" sáng tác bằng ngôn ngữ Khiết Đan, có dịch văn của Gia Luật Lý thời Kim, song bản gốc và bản dịch văn của Gia Luật Lý đều thất truyền, chỉ còn bản dịch chữ Hán của con của Gia Luật Lý là Gia Luật Sở Tài.[4]:148

Bản tô lại mộc khắc hình cá có tiểu tự Khiết Đan

Về phương diện thư mục, triều đình Liêu đặt ra 'quốc sử viện', chuyên tu chỉnh lịch sử, đặt chức quan 'giám tu quốc sĩ', 'sử quán học sĩ'. Cơ quan này từng soạn viết khởi cư chú, nhật lịch, thực lục, quốc sử, cũng phiên dịch không ít thư tịch của người Hán sang văn tự Khiết Đan, như Ngũ Đại sử. Trong đó, thực lục viết vào thời Liêu là một trong các tài liệu chủ yếu để Thoát Thoát thời Nguyên soạn viết ra Liêu sử.[4]:139

Về phương diện ngôn ngữ văn tự, tiếng Hán và tiếng Khiết Đan đều thông hành, có không ít văn thư được viết bằng cả hai loại văn tự. Thời Liêu, còn xuất hiện việc vì phục vụ đệ tử Phật giáo học tập kinh Phật mà biên soạn ra tự điển chữ Hán "Long kham thủ kinh". Văn tự Khiết Đan được sáng chế ra trên cơ sở tham chiếu từ Hán tự, dùng để ghi lại tiếng Khiết Đan, phân thành hai hình thức Khiết Đan đại tự và Khiết Đan tiểu tự, song hiện còn thiếu các văn hiến tương tự như vậy. Khiết Đan đại tự tương truyền bắt nguồn từ năm 920, do Liêu Thái Tổ hạ lệnh cho Gia Luật Đột Lã Bất và Gia Luật Lỗ Bất Cổ tham chiếu chữ Hán mà sáng chế, có thể có hơn ba nghìn chữ; Khiết Đan tiểu tự được tạo thành do em của Liêu Thái Tổ là Gia Luật Điệt Lạt tham khảo Hồi Cốt văn mà cải biến đại tự. Khiết Đan tiểu tự là loại chữ ghép vần, ước tính có 500 ký hiệu phát âm, so với đại tự thì khá tiện lợi, chữ gốc tuy ít song lại có thể biểu đạt thông suốt toàn bộ tiếng Khiết Đan. Việc người Khiết Đan sáng tạo ra chữ viết thể hiện tinh thần tự giác dân tộc mạnh mẽ, có ảnh hưởng không nhỏ đối với các dân tộc khác, như văn tự Đảng Hạng của Tây Hạ, văn tự Nữ Chân của Kim, văn tự Bát Tư Ba của Nguyên.[7]:49 Chữ Khiết Đan được thông hành cho đến năm 1191, khi nó bị Kim Chương Tông Hoàn Nhan Cảnh phế trừ.[4]:97

Tôn giáo

Thời Liêu, Phật giáoTát Mãn giáo là những tôn giáo chính, ngoài ra còn có tục thờ cúng tổ tiên Khiết Đan và tín ngưỡng dân gian.[4]:131 Tín ngưỡng dân tộc gồm thờ phụng Mộc Diệp Sơn, thờ phụng trời đất[4]:129 bái thần mặt trời,[55] bái thần núi[56]. Thờ phụng Mộc Diệp Sơn được cho là bắt nguồn từ khi thủy tổ Khiết Đan xuất hiện và tám bộ Khiết Đan nổi lên, với bối cảnh văn hóa Tát Mãn giáo.[57] Người Khiết Đan cho xây dựng miếu tổ Khiết Đan ở Diệp Mộc Sơn để tế bái thủy tổ,[chú thích 5] cuối cùng phát triển thành 'sài sách nghi' của hoàng thất Liêu.

Tượng La Hán tam thải thời Liêu, khoảng năm 1000

Phật giáo Liêu về cơ bản kế thừa giáo học Phật giáo thời thịnh Đường.[7]:75 Khi Đường Vũ Tông phát động sự kiện diệt Phật, các phiên trấn ở Hà Bắc không nghe theo, do vậy một lượng lớn tăng lữ và văn vật Phật giáo di chuyển đến khu vực Hà Bắc, khiến cho văn hóa Phật giáo tại địa phương phát triển.[4]:132 Năm 902, ở Long Hoa châu dựng Khai Hóa tự, được xem là điểm khởi đầu của Phật giáo truyền bá đến người Khiết Đan. Năm 918, chùa Phật giáo cũng được dựng ở Thượng Kinh của Liêu, Phật giáo dần được người Khiết Đan tin theo và sùng bái. Sau khi Liêu diệt Bột Hải vào năm 926, cho bắt hàng chục tăng nhân Bột Hải đến Thượng Kinh, cũng cho xây chùa Thiên Hùng. Kể từ đó, các kinh và các châu huyện cũng nối tiếp xây dựng chùa miếu. Sau khi Liêu đoạt được Yên Vân thập lục châu vào năm 938, vùng đất này dần phát triển thành trung tâm văn hóa Phật giáo của Liêu, đến cuối thời Liêu thì "số tăng lữ, Phật tự đứng đầu phương bắc". Liêu Thái Tông và các hoàng đế Liêu thi hành chính sách bảo hộ Phật giáo, tôn sùng Phật giáo, khiến cho Phật giáo đại thịnh. Thời Liêu Hưng Tông, tăng nhân Hải Sơn ở chùa Hải Vân trên đảo Giác Hoa có quan hệ rất tốt với hoàng đế.[58] Liêu Đạo Tông từng dùng thơ khen ngợi Phật pháp "hành cao phong đính tùng thiên xích, giới tịnh thiên tâm nguyệt nhất luân". Với việc Phật giáo được truyền bá, do hoàng đế hạ lệnh, chùa miếu khảo xét lại, khắc in kinh Phật và chép kinh cá nhân, hoạt động tập hợp tài liệu, khắc kinh và in kinh do vậy rất tích cực. Trong tượng Phật ở Ứng huyện mộc tháp tại Sơn Tây phát hiện được kinh Phật và tranh Phật; ở chùa Thiên Bảo tại Phong Nhuận của Hà Bắc phát hiện được kinh Phật; trong tháp xá lợi Phật Thích Ca ở kỳ Ba Lâm Hữu của Nội Mông phát hiện được kinh Phật; có thể nói là kho báu của nghệ thuật Phật giáo.[4]:137 Triều Liêu hoàn thành thạch khắc các điển tịch Phật giáo chủ yếu, đầu tiên là "Đại bàn nhược kinh", đến thời Liêu Hưng Tông thì xuất bản "Khiết Đan đại tạng kinh", địa vị chỉ đứng sau "Thục bản đại tạng kinh" khai bản vào thời Tống Thái Tổ, có địa vị quan trọng trong lịch sử điển tịch Phật giáo.[7]:74

Đạo giáo và tư tưởng Đạo gia có tác động nhất định đối với người Khiết Đan. Đầu thời Liêu, trong số những người Hán chuyển đến thảo nguyên, có một số người tin theo Đạo giáo. Thượng Kinh có Thiên Trường quán, Trung Kinh có Thông Thiên quán, một số châu thành cũng có nhiều đạo sĩ và đạo quán. Một số người thuộc thượng tầng Khiết Đan và bộ dân Khiết Đan cũng tin theo Đạo giáo. Liêu Thánh Tông đối với Đạo giáo và Phật giáo đều có sự quan tâm,[59] hoàng đệ Da Luật Long Dụ còn là một tín đồ ngoan đạo của Đạo giáo.[60] Một số đạo sĩ thượng tầng của Đạo giáo được Hoàng đế đối đãi theo lễ nghi tương đồng với tầng lớp thượng tầng của Phật giáo. Liêu Thánh Tông cùng từng trao cho đạo sĩ Phùng Nhược Cốc chức Thái tử trung doãn. Sự truyền bá của Đạo giáo cũng dẫn đến việc nghiên cứu kinh điển Đạo giáo, thời Liêu sớ đạo sĩ Lưu Hải Thiền soạn viết "Hoàn đan phá mê ca" và "Hoàn kim thiên", Da Luật Bội dịch "Âm phù kinh"; sang thời Liêu Thánh Tông thì Trương Văn Bảo người Vu Điền từng dâng "Nội đan thư", còn trong "Túy nghĩa ca" của Tư Công đại sư cũng có lẫn tư tưởng Đạo giáo.[4]:138

Hồi giáo cũng hiện diện tại Liêu, chủ yếu là thông qua Tây Vực, truyền bá sang phía đông từ Khách Lạt hãn quốc bị Hồi hóa. Năm 996, học giả Ả Rập Nazaruddin nhập triều làm quan cho Liêu, liền cho xây Ngưu Thai lễ bái tự ở Nam Kinh của Liêu (tức Bắc Kinh ngày nay).[61] Sau này, hoàng đế Tây Liêu chọn áp dụng chính sách khoan dụng, phục đãi Hồi giáo, khiến Hồi giáo tiếp tục phát triển tại Tây Vực.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhà_Liêu http://www.britannica.com/EBchecked/topic/338833 http://images.gg-art.com/viewNews/index_b.php?news... http://id.loc.gov/authorities/subjects/sh85024064 http://www.apu.ac.jp/~yoshim/B4.pdf http://www.chiculture.net/1702/html/1702c15.html http://www.jstor.org/stable/1005570 http://www.jstor.org/stable/25066819 http://authority.ddbc.edu.tw/place/search.php?ml=%... http://authority.ddbc.edu.tw/place/search.php?ml=%... http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/...